Keo dán gạch gốc xi măng là ứng dụng lớn nhất của vữa khô trộn đặc biệt hiện nay. Nó là một loại phụ gia hữu cơ hoặc vô cơ với xi măng làm vật liệu xi măng chính và được bổ sung cốt liệu phân loại, chất giữ nước, chất cường độ sớm và bột mủ cao su. hỗn hợp. Nói chung, nó chỉ cần được trộn với nước. So với vữa xi măng thông thường, nó có thể cải thiện đáng kể độ bền liên kết giữa vật liệu ốp và nền, có đặc tính chống trượt tốt và có khả năng chống nước và chịu nhiệt tuyệt vời. Nó cũng được sử dụng để trang trí gạch ốp tường nội thất và ngoại thất, gạch lát sàn và các vật liệu trang trí khác. Nó được sử dụng rộng rãi trong việc trang trí tường nội thất và ngoại thất, sàn nhà, phòng tắm, nhà bếp, v.v. Đây là loại gạch được sử dụng rộng rãi nhất. Vật liệu kết dính.
Thông thường, khi đánh giá hiệu suất của keo dán gạch, chúng ta nên chú ý đến độ bền cơ học và thời gian mở của nó bên cạnh hiệu suất hoạt động và khả năng chống trượt của nó. Ngoài việc ảnh hưởng đến tính chất lưu biến của cao su sứ, chẳng hạn như độ mịn khi vận hành, tình trạng của dao dán, v.v., ete xenlulo còn có ảnh hưởng mạnh đến tính chất cơ học của keo dán gạch.
1. Thời gian mở cửa
KhiBột polymer tái phân tánVàete xenlulocùng tồn tại trong vữa ướt, một số mô hình dữ liệu cho thấy bột cao su có động năng mạnh hơn gắn vào sản phẩm hydrat hóa xi măng và ete xenlulo hiện diện nhiều hơn trong chất lỏng kẽ, ảnh hưởng nhiều hơn. Độ nhớt và thời gian đông kết của vữa. Sức căng bề mặt của ete xenlulo lớn hơn so với bột cao su và việc làm giàu thêm ete xenlulo ở bề mặt tiếp xúc vữa có lợi cho việc hình thành liên kết hydro giữa bề mặt nền và ete xenlulo.
Trong vữa ướt, nước trong vữa bay hơi, ete xenlulo được làm giàu trên bề mặt và tạo thành một màng trên bề mặt vữa trong vòng 5 phút, làm giảm tốc độ bay hơi sau đó, vì càng có nhiều nước dày hơn từ vữa. vữa. Một phần của quá trình di chuyển đến lớp mỏng hơn của lớp vữa, lỗ mở ban đầu của màng bị hòa tan một phần và sự di chuyển của nước sẽ mang thêm ete xenlulo lên bề mặt vữa.
Sự hình thành màng ete cellulose trên bề mặt vữa có ảnh hưởng lớn đến tính năng của vữa:
Thứ nhất, màng tạo thành quá mỏng sẽ bị hòa tan hai lần, không hạn chế được sự bay hơi của nước, làm giảm độ bền.
Thứ hai, màng hình thành quá dày, nồng độ ete xenluloza trong chất lỏng kẽ vữa cao và độ nhớt lớn. Khi gạch được dán, không dễ để phá vỡ màng bề mặt.
Từ đó có thể hiểu rằng đặc tính tạo màng của ete xenlulo có ảnh hưởng lớn đến thời gian mở. Loại ete xenlulo (HPMC,HEMC, MC, v.v.) và mức độ ete hóa (mức độ thay thế) ảnh hưởng trực tiếp đến đặc tính tạo màng của ete xenlulo cũng như độ cứng và độ dẻo dai của màng.
2, sức mạnh
Ngoài việc mang lại những đặc tính có lợi khác nhau được mô tả ở trên cho vữa, ete xenlulo còn làm chậm động học thủy hóa của xi măng. Sự chậm trễ này chủ yếu là do sự hấp phụ của các phân tử ete xenlulo trên các pha khoáng khác nhau trong hệ thống xi măng ngậm nước, nhưng nói chung, các phân tử ete xenlulo chủ yếu được hấp phụ trên nước như CSH và canxi hydroxit. Trên sản phẩm hóa học hiếm khi bị hấp phụ trên pha khoáng ban đầu của clinker. Ngoài ra, do độ nhớt của dung dịch lỗ rỗng tăng lên nên ete xenlulo làm giảm độ linh động của các ion (Ca2+, SO42-,…) trong dung dịch lỗ rỗng, từ đó làm chậm thêm quá trình hydrat hóa.
Độ nhớt là một thông số quan trọng khác đại diện cho tính chất hóa học của ete xenlulo. Như đã đề cập ở trên, độ nhớt ảnh hưởng chủ yếu đến khả năng giữ nước và cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng công tác của vữa tươi. Tuy nhiên, các nghiên cứu thực nghiệm đã phát hiện ra rằng độ nhớt của ete xenlulo hầu như không ảnh hưởng đến động học hydrat hóa của xi măng. Trọng lượng phân tử ít ảnh hưởng đến quá trình hydrat hóa và sự khác biệt lớn nhất giữa các trọng lượng phân tử khác nhau chỉ là 10 phút. Do đó, trọng lượng phân tử không phải là thông số chính để kiểm soát quá trình thủy hóa xi măng.
“Ứng dụng của Cellulose Ether trong các sản phẩm vữa trộn khô gốc xi măng” nêu rõ rằng khả năng làm chậm của ete cellulose phụ thuộc vào cấu trúc hóa học của nó. Xu hướng chung được tóm tắt là đối với MHEC, mức độ methyl hóa càng cao thì khả năng làm chậm của ete cellulose càng nhỏ. Ngoài ra, các chất thay thế ưa nước (chẳng hạn như các chất thay thế cho HEC) có tính ức chế cao hơn các chất thay thế kỵ nước (chẳng hạn như các chất thay thế cho MH, MHEC, MHPC). Tác dụng làm chậm của ete cellulose chủ yếu bị ảnh hưởng bởi hai thông số về loại và lượng nhóm thế.
Các thí nghiệm trên hệ thống của chúng tôi cũng cho thấy hàm lượng các nhóm thế đóng vai trò quan trọng đối với độ bền cơ học của keo dán gạch. Chúng tôi đã đánh giá hiệu suất của HPMC với các mức độ thay thế khác nhau trong keo dán gạch và thử nghiệm các cặp ete xenlulo với các nhóm khác nhau trong các điều kiện xử lý khác nhau. Ảnh hưởng của các tính chất cơ học của keo dán gạch, Hình 2 và Hình 3 là ảnh hưởng của sự thay đổi hàm lượng methoxy (DS) và hàm lượng hydroxypropoxy (MS) đến độ bền kéo xuống của keo dán gạch ở nhiệt độ phòng.
Nhân vật 2
Nhân vật 3
Trong thử nghiệm, chúng tôi xem xétHydroxypropyl metyl xenlulo (HPMC), đó là một ether phức tạp. Vì vậy, chúng ta nên ghép hai hình lại với nhau. Đối với HPMC, chúng ta cần nguồn cung cấp để đảm bảo độ hòa tan trong nước và độ truyền ánh sáng. Chúng tôi biết nội dung của các nhóm thế. Nó cũng xác định nhiệt độ gel của HPMC, xác định môi trường sử dụng HPMC. Do đó, nội dung của HPMC thường được sử dụng cũng được đóng khung trong một phạm vi. Cách kết hợp nhóm methoxy và hydroxypropoxy trong khoảng này để đạt được kết quả tốt nhất là điều chúng tôi nghiên cứu. Hình 2 cho thấy trong một phạm vi nhất định, việc tăng hàm lượng methoxyl sẽ làm cho lực kéo có xu hướng giảm, trong khi hàm lượng hydroxypropoxyl sẽ tăng lên và cường độ kéo sẽ tăng lên. Đối với thời gian mở, có tác dụng tương tự.
Thời gian đăng: 18-12-2018